Microsoft Word - bai2.doc
BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN

THÁNG 3/2003



2

C
C
H
H
I
I


N
N


L
L
Ư
Ư


C
C


Đ
Đ
À
À
O
O


T
T


O
O


N
N
G
G
À
À
N
N
H
H




T
T
H
H
Ư
Ư


V
V
I
I


N
N






T
T
H
H
Ô
Ô
N
N
G
G


T
T
I
I
N
N






V
V
I
I


T
T


N
N
A
A
M
M


ThS. NGUYỄN MINH HIỆP
Thư viện ĐH Khoa học Tự Nhiên, ĐHQG TP. HCM


Chiến lược thư viện - công nghệ thông tin
Lịch sử thư viện - thông tin đã trải qua
hai mốc phát triển quan trọng làm thay đổi
quan niệm ngành nghề và tác động lớn đến
vấn đề đào tạo. Đó là:

• Sự ra đời của máy tính và tin
học hóa thư viện vào thập niên
1960;

• Sự bùng nổ việc sử dụng thông
tin điện tử hay chính xác hơn
sau khi thư viện số ra đời giữa
thập niên 1990.

Từ điểm mốc đầu tiên, việc ứng dụng
công nghệ thông tin (CNTT) ngày càng trở
nên quan trọng đối với ngành thư viện -
thông tin. Một ngành học mới ra đời –
Thông tin học với việc ứng dụng CNTT đã
phát sinh ra nhiều môn học xoay quanh vấn
đề quản lý thông tin. Ranh giới khác nhau
giữa Thư viện học và Thông tin học khá rõ
ràng trong giai đoạn này. CNTT phát triển
nhanh và việc ứng dụng nó đã khiến cho việc
quản lý thông tin đạt đến đỉnh cao. Tuy nhiên
tại giai đoạn này người ta vẫn quan niệm
CNTT chỉ là ứng dụng cho ngành thư viện -
thông tin như những ứng dụng cho những
ngành nghề khác.

Từ điểm mốc thứ hai, một số khái
niệm mới ra đời chẳng hạn như xã hội thông
tin, kỷ nguyên tri thức, thư viện điện tử,

thông tin kỹ thuật số, vv… Tất cả đều tôn
vinh vai trò thông tin với sự chắp cánh
của CNTT. Quả vậy, cuộc bùng nổ thông
tin với tác động của CNTT và truyền
thông đã ảnh hưởng đến tất cả mọi lĩnh
vực trong đời sống xã hội. Việc quản lý
thông tin được xem như là thành quả của
CNTT. CNTT phát minh kỹ thuật số, ta
có thư viện số; CNTT điển chế thông tin
thành tri thức, ta có quản lý tri thức;
CNTT phát minh ra Web, ta đã thay đổi
phương thức biên mục từ MARC qua
XML; vv…Tại giai đoạn này người ta
thừa nhận rằng ngành CNTT và ngành
thư viện - thông tin song hành với nhau
như hình với bóng. Không ai còn ngồi mà
phân biệt sự khác nhau của Thư viện học
và Thông tin học mà người ta bắt đầu có
một tầm nhìn chiến lược về sự tiệm cận
của CNTT và thư viện - thông tin để xác
định bao giờ thì tuy hai mà một.

Chúng ta dễ dàng nhận thức được
rằng ngày nay để nghiên cứu chuyên sâu
và có giá trị đích thực về ngành thư viện -
thông tin thì việc nghiên cứu đó không thể
tách rời CNTT, thậm chí hoàn toàn phụ
thuộc vào CNTT. Nhiều nhà hoạch định
chương trình đào tạo ngành thư viện -
thông tin trên thế giới đã có một cách
nhìn thực tế và chiến lược khi sáp nhập
hoàn toàn việc đào tạo thư viện - thông tin

BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN

THÁNG 3/2003



3

vào ngành CNTT. Điển hình như trường hợp
Đại học Brighton, Anh Quốc đã kết hợp
Khoa thư viện - thông tin học với Khoa Tính
toán để thành lập Trường Quản lý thông tin
trực thuộc Trường đại học CNTT.

Nếu chúng ta muốn hoạch định một
chiến lược đào tạo ngành thư viện - thông tin
Việt Nam thì không thể tách khỏi ý tưởng
thực tế và chiến lược thư viện - công nghệ
thông tin đó; vã lại ở nước ta, vấn đề mã
ngành là một ràng buộc cho cán bộ thông tin
- thư viện có trình độ muốn nghiên cứu
chuyên sâu hay nghiên cứu sinh về ngành
nghề của mình hoặc những ứng dụng công
nghệ để phát triển ngành nghề, mà những
nghiên cứu đó hoàn toàn thuộc lĩnh vực
CNTT. Chẳng hạn như những nghiên cứu về
Khai thác dữ liệu; Thiết lập cơ sở tri thức;
Biên mục tự động; Xây dựng kho tài nguyên
học tập điện tử; Xây dựng thư viện số; vv…
Hiện trạng ngành thư viện - thông tin Việt
Nam

Nếu chúng ta xem hai điểm mốc trong
lịch sử phát triển ngành thư viện - thông tin
như hai chu kỳ thì ngành thư viện - thông tin
nước ta dường như chậm mất một chu kỳ. Có
nghĩa rằng chúng ta hầu như vừa mới bước
qua giai đoạn thôi dùng hệ thống mục lục
phiếu trong khi toàn thế giới đang phát triển
thư viện số. Mỗi giai đoạn phát triển như ta
đã thấy có tác động lớn đến vấn đề đào tạo.
Chương trình và nội dung đào tạo của chúng
ta hiện nay là để cung cấp nhân lực cho tiền
chu kỳ thứ nhất và một phần nào đó cho
chương trình quá độ của chu kỳ thứ nhất.
Nếu chúng ta tiếp tục đào tạo như thế này và
"từng bước" cải tiến như hiện nay thì chúng
ta tiếp tục đào tạo một đội ngũ cán bộ thư
viện - thông tin "từng bước" đi sau người ta;
trong khi người ta thì đang chạy với tốc độ
của sự phát triển CNTT.

Giá trị thư viện ngày nay
Một trong những thành tố quan
trọng để xây dựng thư viện ngày nay là
nhắm đến hợp tác liên thông trên phạm vi
toàn cầu, do đó giá trị của thư viện là ở
chỗ nắm bắt công nghệ mới để giúp độc
giả truy hồi thông tin từ khắp nơi. Ngày
nay việc nắm bắt công nghệ mới không
cần có sự kế thừa. Vấn đề là người ta cần
phải được đào tạo để hiểu biết. Và đây là
vấn đề của những người có trách nhiệm
trong sự nghiệp đào tạo ngành thư viện -
thông tin; đồng thời cũng là điểm quan
trọng nhất trong chiến lược đào tạo ngành
thư viện - thông tin nước ta hiện nay.
Xây dựng mô hình đào tạo cán bộ thư
viện - thông tin

Đây là vấn đề then chốt trong
chiến lược đào tạo ngành thư viện - thông
tin đòi hỏi người có trách nhiệm hoạch
định chính sách phải có tầm nhìn xa trông
rộng, đồng thời phải biết đối phó với
những vấn đề hiện trạng mà đôi khi đấy
chính là lực cản của sự phát triển.

Chúng ta cần phải biết rõ chúng ta
đang ở giai đoạn nào của sự phát triển và
sự tương quan giữa chúng ta với cộng
đồng thế giới để xác định nhu cầu và kịp
thời thay đổi nhu cầu theo sự phát triển
của công nghệ. Nói chung nhu cầu phát
triển của ngành thư viện - thông tin chúng
ta là đi tắt đón đầu để hội nhập với cộng
đồng thế giới. Do đó nên ý thức rằng điều
quan trọng nhất trong việc "Nâng cao chất
lượng đào tạo cán bộ thư viện - thông tin"
là tính chiến lược của vấn đề.

Đào tạo đại học là để đáp ứng nhu
cầu lao động xã hội nhằm đạt đến mục
tiêu phát triển ngành nghề. Nhà hoạch
định chương trình đào tạo phải soạn thảo

BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN

THÁNG 3/2003



4

chương trình theo nhu cầu và đôi khi cần
phải làm thay đổi nhu cầu đó để đáp ứng
từng giai đoạn phát triển. Mục tiêu của
chúng ta hiện nay là hiện đại hóa ngành
thư viện - thông tin để sớm bắt kịp nhịp
phát triển với cộng đồng thế giới. Với hiện
trạng ngành thư viện - thông tin như hiện
nay, vấn đề thay đổi nhu cầu còn mang tính
chiến lược để có thể làm thay đổi hoàn toàn
tầm nhìn và cách nhìn về tính đặc thù của
ngành nghề thư viện - thông tin nói chung và
trong tương quan giữa hiện trạng Việt Nam
với cộng đồng thế giới nói riêng.

Do đó, để xây dựng phương cách hay
mô hình đào tạo ngành thư viện - thông tin
Việt Nam hiện nay, chúng ta phải xét trên ba
phương diện: (1) đáp ứng nhu cầu, (2) thay
đổi nhu cầu để đáp ứng từng giai đoạn phát
triển, và (3) thay đổi nhu cầu mang tính
chiến lược.
Ba mô hình đào tạo cán bộ thư viện -
thông tin

1. Mô hình đào tạo nhằm đáp ứng
nhu cầu
Nhu

cầu trong việc xây dựng
và phát triển thư viện rất đa dạng.
Tuy nhiên với mô hình đào tạo của
khối các trường đại học và cao
đẳng văn hóa hiện nay có thể đáp
ứng được với điều kiện mạnh dạn
loại bỏ những môn học nặng nề lý
thuyết và không còn cần thiết cho
nhu cầu phát triển; đồng thời hình
thành những môn học chuyên về
thực hành và nhấn mạnh vai trò
quan trọng của công nghệ.

2. Mô hình đào tạo nhằm thay đổi
nhu cầu để đáp ứng kịp thời từng
giai đoạn phát triển


Đây chính là mô hình đào
tạo cán bộ thư viện - thông tin
dựa vào CNTT. CNTT thay đổi
nhanh chóng và được ứng dụng
triệt để vào hoạt động thư viện -
thông tin. Nhu cầu của người sử
dụng cần được thay đổi để
hướng đến việc sử dụng công
nghệ nhiều hơn vì giá trị thư
viện đã thay đổi từ chỗ sở hữu
tài nguyên thông tin đến chỗ sử
dụng công nghệ mới để truy hồi
thông tin. Chương trình đào tạo
này bao gồm 60% chuyên ngành
CNTT và 40% chuyên ngành
thư viện - thông tin và những
ngành liên quan, chẳng hạn như
Sở hữu trí tuệ và luật bản quyền,
Quản lý dự án CNTT-Thư viện,
vv…

Mô hình đào tạo này được
đặt vào các trường CNTT để đào
tạo trung cấp, cao đẳng, đại học,
và sau đại học. Học viên tốt
nghiệp được cấp văn bằng chính
quy Công nghệ thông tin
chuyên ngành Thư viện điện tử
với mã ngành CNTT. Học viên
được trang bị nghiệp vụ và kiến
thức cập nhật trong ngành thư
viện - thông tin đồng thời kỹ
năng CNTT trong việc ứng dụng
tin học để phát triển thư viện
hiện đại. Với mã ngành CNTT,
học viên có thể tiếp tục học các
chương trình sau đại học và
nghiên cứu sinh của CNTT, với
một hướng nghiên cứu mở rộng
gần như vô tận để phục vụ cho
ngành thư viện - thông tin.

BẢN TIN LIÊN HIỆP THƯ VIỆN

THÁNG 3/2003



5


Mô hình này đang được triển
khai thành công tại trường THCN
Công nghệ Tin học và Viễn thông
Biên Hòa, Đồng Nai. Năm học tới
sẽ được triển khai tại Khoa CNTT
của một số trường trên địa bàn TP.
Hồ Chí Minh và dự kiến được đưa
vào Chương trình đào tạo từ xa của
Trung tâm Phát triển CNTT, Đại
học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

3. Mô hình thay đổi nhu cầu mang
tính chiến lược
Xét về mặt chiến lược và hội
nhập, chúng ta nên nhận thức rằng:
Chuyên môn cốt lõi của nghề thư
viện là phần giao nhau của ba
mặt: thông tin, công nghệ thông
tin và người sử dụng. Người sử
dụng thì đa dạng, do đó đội ngũ cán
bộ thư viện - thông tin cần phải có
kiến thức đại học của tất cả mọi
lĩnh vực; với kiến thức đa dạng đó,
đội ngũ này cần được đào tạo
nghiệp vụ quản lý thông tin trong
môi trường công nghệ thông tin.
Đội ngũ này sau khi tốt nghiệp sẽ là
những nhà tư vấn về thông tin cho
tất cả mọi người trong tất cả mọi

lĩnh vực. Do đó mô hình đào tạo
cán bộ thư viện - thông tin của
tất cả các nước tiên tiến trên thế
giới là mô hình chỉ đào tạo sau
đại học; đầu vào là sinh viên tốt
nghiệp đại học bất cứ ngành
nào. Đây là mô hình chiến lược
và hội nhập mà ngành thư viện -
thông tin chúng ta cần phải xây
dựng trong môi trường CNTT.

Hàng năm sẽ có một số
lượng không ít thạc sĩ được đào
tạo chính quy với trình độ
CNTT cao sẽ phục vụ trong tất
cả các cơ sở thông tin - thư viện
của cả nước. Chừng đó sẽ đáp
ứng được nhu cầu hiện đại hóa
ngành thư viện - thông tin. Với
hướng CNTT, vấn đề nghiên
cứu sinh cũng trở nên thuận lợi
cho tất cả cán bộ thư viện có
trình độ ngày nay và cho thế hệ
sinh viên tài năng ngày mai.
Trong một khoảng thời gian
ngắn ngành thư viện - thông tin
Việt Nam sẽ có một đội ngũ
hùng hậu hoàn toàn có thể sánh
vai cùng năm châu bốn bể.

-


-

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brighton University. Faculty of Information Technology. School of Information
Management. Division of Information Science. MA in Information and
Library Studies.

2. Nanyang Technological University. School of Communication and Information.
Division of Information Studies. MSc in Information Studies.